“Rừng vàng biển bạc”: Con đường nào cho đất rừng Tây Nguyên?
Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá
Giá trị của rừng đã ăn sâu vào văn hoá và phong tục Việt Nam. Văn hoá Việt Nam có câu: ”Rừng vàng, biển bạc” - là lời ẩn dụ cho sự hào phóng của thiên nhiên Việt Nam. Để khẳng định tầm quan trọng và sự linh thiêng của rừng đối với đời sống kinh tế và văn hoá người dân Việt, tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” (tội ác tồi tệ nhất là tội phá huỷ núi rừng, tội ác thứ hai là giết chết một dòng sông). Chính vì vậy, phá rừng, hại sông chính là những điều cấm kỵ đối với người Việt.
Trong chiến tranh Việt Nam, rừng được xem là đồng minh thân thiết của người lính Việt, “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Sau hàng thập kỷ chiến tranh triền miên, hàng tấn thuốc diệt cỏ, chất độc màu da cam, bom đạn đã tàn phá núi rừng Việt Nam, sau là sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và dân số tăng nhanh, rừng đã phải trả giá đắt. Đến cuối những năm 1980, độ che phủ rừng trên toàn quốc đã giảm đi một nửa.
Sau chính sách Đổi mới, mật độ che phủ rừng của Việt Nam đã quay trở lại mức những năm 1960 với hơn 10 triệu ha rừng tự nhiên và 4,6 triệu ha rừng trồng. Tuy nhiên, cho đến nay, đối diện với sự phát triển kinh tế vượt bậc và công nghiệp hóa nhanh chóng, rừng tự nhiên ở Việt Nam cũng phải bị đốn hạ từng ngày để nhường chỗ cho các khu công nghiệp, dân cư, kinh tế, du lịch và nghỉ dưỡng cao cấp. Trong giai đoạn 2013-2022, theo Global Forest Watch, rừng tự nhiên ở Việt Nam đang giảm nhanh đạt mức 1,57 triệu ha.
Theo Thông tin từ Tổng cục Lâm nghiệp vào tháng 12/2015, từ năm 1975 đến cuối năm 2013, Tây Nguyên đã mất khoảng 32,8% diện tích rừng tự nhiên, giảm từ 3,8 triệu ha xuống còn 2,5 triệu ha. Tốc độ mất rừng tự nhiên lên tới 33.600ha/năm và chưa có dấu hiệu giảm tốc.
Hình ảnh vệ tinh cho thấy sự biến động lớn về rừng tại 5 tỉnh Tây Nguyên, bao gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Vì sao Tây Nguyên mất rừng nhanh đến vậy?
Các vùng kinh tế mới, Di cư và Tái định cư
Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Tây Nguyên (bao gồm Gia Lai, Kon Tum và Đắk Lắk và Lâm Đồng) đã trở thành điểm đến của dòng người nhập cư Việt Nam theo các chính sách di dân của chính phủ. Phần lớn những người di cư đến các khu vực này sau chiến tranh Việt Nam là các dân tộc thiểu số như người Gia-rai, Ede, Ba-na, Kohor, Xơ-đăng, Hre, Hmong, …
Chính phủ Việt Nam đã ban hành chính sách “Xây dựng vùng kinh tế mới” nhằm tổ chức, phân bố lại lao động và dân cư trong cả nước, di dời một khối lượng lớn dân cư từ các vùng đồng bằng và thành phố tới các vùng trung du, miền núi, biên giới, hải đảo.
Thực tế, chính sách này được triển khai tại miền Bắc Việt Nam từ năm 1961 và trên toàn quốc từ sau khi đất nước thống nhất cho đến tận năm 1998 khi Việt Nam đi theo mô hình Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chính của chính sách này là nhằm “phân bố hợp lý sức sản xuất” giữa các vùng, quy hoạch các vùng kinh tế mới ở trung du và miền núi”, “tăng năng suất lao động xã hội” (Báo cáo Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, 1976)
Trong 37 năm, Việt Nam đã di chuyển có tổ chức được 1.368.691 hộ, trong đó di cư trong nội bộ tỉnh là 702.761 hộ với 3.342.253 người, từ tỉnh này sang tỉnh khác là 665.930 hộ với 2.809.373 người. Khoảng 10 triệu người mà trong đó phần lớn là dân tộc thiểu số đã được di dời ra khỏi các thành phố phía Nam và phía Bắc Việt Nam đến khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Tuy nhiên, các chính sách “di dân kinh tế mới” này thật sự đã góp một phần không nhỏ đối với việc suy thoái tài nguyên rừng của Việt Nam. Theo nghiên cứu của Grant Evans (1992), các chính sách “di dân kinh tế mới” của chính phủ sau năm 1975 vẫn chưa đạt được mục tiêu ban đầu, mặt khác còn tạo ra nhiều hệ luỵ về thiên nhiên và con người.
Điển hình, với số lượng lớn người di cư đến các vùng hoang sơ và hoàn toàn không đủ cơ sở vật chất cơ bản như trường học, bệnh viện, nhà ở, nước sạch, lương thực, thực phẩm và điện, cuộc sống của họ dần xuống cấp.
Theo đó, không có khả năng tự cung tự cấp về kinh tế, những người di cư phải dùng đến phương pháp canh tác nương rẫy, khai thác gỗ, chặt phá gỗ bất hợp pháp và săn bắn các loại động vật quý hiếm để làm thức ăn. Mặt khác, việc xây dựng các vùng kinh tế mới tại các khu vực trung du và miền núi Việt Nam đã dẫn theo làn sóng di cư ồ ạt không kiểm soát đến khu vực này khi các thành phố lớn đã quá tải, gây khủng hoảng trong việc quản lý và phân bổ tài nguyên. Đối diện với thực tế, các chính sách tái định cư này cũng là một trong những nguyên do khiến diện tích rừng của Việt Nam đã giảm từ 44% vào năm 1945 xuống còn 22% vào năm 1985.
Ví dụ, từ năm 2005 đến nay, tỉnh Đắk Lắk không đón nhận người dân di cư theo kế hoạch. Tuy nhiên, từ năm 2005 đến 2019 vẫn có có 1.841 hộ với 9.109 khẩu của 51 tỉnh, thành, di cư tự do đến 10 huyện trên địa bàn tỉnh. Cùng với số dân trước đó chưa được quy hoạch, giải quyết đất ở, đất sản xuất tạo ra sức ép rất lớn cho các vấn đề kinh tế, xã hội, anh ninh trật tự tại địa phương, trong đó có cho công tác quản lý, bảo vệ rừng (Theo UBND tỉnh Đắk Lắk (2020), Báo cáo số 234/BC-UBND về di cư tự do).
Chuyển đổi mục đích sử dụng rừng tự nhiên
Ngoài các chính sách di dân hàng loạt, kế hoạch phát triển các vùng kinh tế mới tại khu vực Tây Nguyên cũng làm cho diện tích rừng tự nhiên giảm đi đáng kể. Kể từ sau năm 1975, Tây Nguyên trở thành thủ đô của lâm nghiệp, với 3,8 triệu ha rừng tự nhiên, độ che phủ toàn cùng là 70%. Sau nhiều thập kỷ, diện tích rừng ở đây chỉ còn khoảng 2,1 triệu ha. Trong đó, chỉ gần 10% diện tích là rừng giàu, còn lại là rừng nghèo kiệt. Từ năm 1976 đến 2005, mỗi năm Tây Nguyên để mất khoảng 34.000 ha rừng tự nhiên. Trong số này, phần đáng kể rừng bị mất là do chuyển đổi mục đích sử dụng (phục vụ mục đích kinh tế, khai thác,...), còn lại là do phá rừng bất hợp pháp, khai thác rừng trồng và cháy rừng chỉ chiếm phần nhỏ (Vnexpress).
Lấy ví dụ bằng Kế hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng của tỉnh Lâm Đồng, theo phân tích của Mongabay, từ năm 2021 đến năm 2030, Lâm Đồng đã có kế hoạch chuyển đổi 32.116 ha đất rừng - trong đó có tới 70% là rừng tự nhiên - cho các dự án nhằm phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng.
Theo các kế hoạch sử dụng đất do tỉnh Lâm Đồng đưa ra, tổng cộng 25.149 ha rừng, chiếm hơn ba phần tư diện tích được dành để chuyển đổi thành đất phát triển kinh tế, sẽ bị mất vào các dự án khai khoáng. Các công ty tham gia vào các dự án được lên kế hoạch này bao gồm nhiều tên tuổi lớn trong nước. Điều này thể hiện sự đánh đổi lớn về đất rừng, đặc biệt là rừng tự nhiên, trong thời điểm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã cam kết hạn chế chuyển đổi đất rừng tự nhiên.
Hình ảnh ngọn đồi bị đào khoét nham nhở để khai thác vàng tại xã Tà Năng, huyện Đức Trọng, Lâm Đồng.
Theo báo Tuổi Trẻ, người dân ở đây chỉ ra phía những ngọn đồi kể rằng những thay đổi rõ rệt nhất theo thời gian ở xã Tà Năng là những quả đồi bị đào khoét nham nhở để khai thác khoáng sản. Nhiều ngọn đồi bị khoét hết một nửa để khai thác quặng vàng, gây ô nhiễm và huỷ hoại con suối vốn là nguồn nước duy nhất để tưới cho nương rẫy của người dân.
“Mình tiếc nhớ những cánh rừng bị mất dần” - Yatha (người Churu ở xã Tà Năng)
Trong 10 năm tới, toàn tỉnh Lâm Đồng sẽ có thêm 32,115 ha đất rừng biến mất bởi các quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng từ chính quyền. Diện tích rừng dự kiện được chuyển đổi là nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh. Tuy nhiên, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lâm Đồng, phần lớn diện tích trong 32.115ha đất rừng dự kiến chuyển đổi được dành triển khai các dự án khai thác khoáng sản (25.149ha - chiếm hơn 78%). Trong khi diện tích rừng chuyển đổi để lập các khu định canh, định cư, phân bổ đất nông nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số và những người di cư tự nguyện chỉ có 45,8ha (chỉ 0,14%).
Theo luật pháp Việt Nam, đất rừng được chuyển đổi phải được bù đắp thông qua việc tái trồng rừng ở nơi khác. Theo Điều 21 của Luật Lâm nghiệp, nếu một khu vực dự án trước đây được phân loại là rừng trồng, diện tích thay thế phải bằng diện tích được chuyển đổi về diện tích; đối với rừng tự nhiên, diện tích phải gấp ba lần diện tích được chuyển đổi. Điều đó có nghĩa là trong thập kỷ từ 2021-2030, các nhà phát triển dự án ở Lâm Đồng sẽ được yêu cầu trồng hơn 77.000 ha rừng thay thế.
Đó là diện tích lớn hơn 25 lần so với mục tiêu tái trồng rừng của tỉnh là 3.046 ha (7.527 mẫu Anh) trong thập kỷ từ 2012-2022. Chỉ có khoảng 60% con số trước đó đã được trồng cho đến nay; tỉnh đã hết đất dự trữ để trồng rừng, theo báo cáo tháng 10 năm 2023 từ sở nông nghiệp tỉnh.
Không chỉ riêng Lâm Đồng là tỉnh không còn đất trồng rừng. Cả nước hiện vẫn còn thiếu hơn 3.243ha rừng phải trồng để thay thế diện tích rừng bị mất đi tại 33 tỉnh thành. Trong tương lai, nếu Việt Nam tiếp tục hy sinh đất rừng tự nhiên để phát triển các dự án kinh tế đầu tư, các nhóm dân tộc thiểu số và người di cư ở các vùng trung du và miền núi sẽ là nhóm đối mặt với hệ quả từ môi trường đầu tiên.

Nếu nói rằng phải đánh đổi đất rừng để phát triển được kinh tế, thì câu hỏi cần được mang ra thảo luận là: “Lợi ích kinh tế đó rồi sẽ về tay ai?”
Độc canh cà phê, cao su và keo: Phủ xanh đồi trọc hay xóa sổ rừng nguyên sinh?
Nhìn lại cơ cấu rừng tại khu vực Tây Nguyên và Trung bộ, từ những năm 1990, chính phủ đã ban hành các chương trình “Phủ xanh đất trống, đồi trọc (1993)” nhằm khuyến khích người dân các tỉnh miền Bắc, Trung và Tây Nguyên trồng các loại cây như keo tràm, bạch đàn - vừa phục vụ nguyên liệu gỗ cho công nghiệp xuất khẩu, vừa “phủ xanh đồi trọc". Cho đến năm 2023, diện tích rừng sản xuất đã chiếm khoảng 53% tổng diện tích rừng cả nước và keo là loài chiếm tỷ trọng lớn nhất trong đó.
Sau hơn 30 năm thực hiện các chủ trương này, Việt Nam hiện đang là nước sản xuất gỗ lớn thứ năm thế giới, nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai và nước xuất khẩu cao su lớn thứ ba thế giới. Những người nông dân sản xuất cà phê và cao su của Việt Nam đã đóng góp hơn 6,5 tỷ đô la cho nền kinh tế của Việt Nam mỗi năm. Tuy nhiên, khi giá cả toàn cầu của những mặt hàng này tăng, sản lượng cũng tăng theo, rừng nguyên sinh sẽ phải trả giá.
Năm 2008, Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và PTNT đồng ý chủ trương phát triển 100.000 ha cao su tại các tỉnh Tây Nguyên. Trong đó, Gia Lai được chuyển đổi 50.000 ha rừng nghèo sang trồng cao su. Từ năm 2008 đến 2011, UBND tỉnh đã giao hơn 32.400 ha rừng nghèo cho 17 doanh nghiệp triển khai 44 dự án trồng cao su tại 5 huyện: Chư Prông, Chư Pưh, Đức Cơ, Ia Pa và Ia Grai.
Sau gần 16 năm triển khai thực hiện, diện tích cao su không phát huy hiệu quả ngày một tăng lên. Đến nay, hơn 16.500 ha cao su bị chết và kém phát triển, gây lãng phí nguồn lực, tài nguyên và nhiều hệ lụy khác như môi trường, khí hậu, trật tự xã hội...Hơn nữa, hàng loạt các doanh nghiệp và tập đoàn đã tận dụng thời cơ, chuyển đổi hàng trăm nghìn hecta rừng giàu và nghèo sang trồng cao su.
Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, quy hoạch phát triển cao-su của các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2020 là 343.890 ha, vượt xa con số quy hoạch của Chính phủ cho vùng này là 280.000 ha. Cơ quan này cũng cho biết, tại năm tỉnh của khu vực Tây Nguyên, 79% diện tích trồng mới cao su được phát triển trên diện tích đất rừng tự nhiên, và không phải toàn bộ diện tích này đều là rừng nghèo kiệt. Việc phát triển ồ ạt cây cao su ở các địa phương đã và đang là nguyên nhân trọng yếu dẫn đến giảm diện tích rừng và suy thoái môi trường.
Mặt khác, cao su, cà phê hay các loại cây cho gỗ như keo tràm là loài cây ngoại lai, khi được trồng dày đặc, độc canh (như hiện tại) sẽ lấn át hệ sinh thái bản địa. Đặc biệt là cây keo, rễ keo phát triển nhanh sẽ hút hết nước ngầm (làm giảm độ ẩm của đất) và chất dinh dưỡng khiến đất trở nên khô cằn và nghèo kiệt. Đặc biệt, so với rừng nguyên sinh, keo rụng nhiều lá khô (nhiều thực bì), dễ bắt lửa, nhất là trong mùa khô hạn. Một rừng keo dày đặc chính là môi trường lý tưởng cho nạn cháy rừng phát triển nhanh chóng và khó kiểm soát.
Theo Tổng cục Thống kê, hầu hết các vụ cháy rừng ở Việt Nam xảy ra ở các địa phương tập trung nhiều rừng trồng các cây dễ cháy như: thông, keo, bạch đàn, tre nứa, phi lao,... Rõ ràng, việc “trồng rừng, phủ xanh đồi trọc” bằng các loại cây như keo hay bạch đàn mà loại bỏ các giống bản địa, hay việc mở rộng diện tích rừng sản xuất lấn át rừng tự nhiên rõ ràng là vừa phá hoại đất đai, vừa làm giảm đa dạng sinh học, vừa làm mất cân bằng hệ sinh thái, gây thiệt hại đến đời sống của người dân - đặc biệt là những người đang sống nương tựa vào rừng nguyên sinh, rừng tự nhiên.
Hơn nữa, việc mất đi các khu vực rừng tự nhiên hoặc thay thế chúng bằng các đồn điền độc canh có chu kỳ ngắn hoặc cây công nghiệp ở địa hình dốc và các khu vực thượng nguồn dễ bị tổn thương đã làm trầm trọng thêm mức độ nghiêm trọng của lở đất và lũ lụt, vốn đã nghiêm trọng do biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt”. Thật vậy, việc mở rộng canh tác cà phê, keo tràm và cao su thay thế các khu rừng tự nhiên tại khu vực Tây Nguyên và miền núi phía Trung và Bắc Việt Nam đã và đang làm xói mòn và huỷ hoại sự đa dạng sinh học và toàn bộ hệ sinh thái rừng tự nhiên của các khu vực này.
Tạm kết: Ai yêu rừng hơn người dân sống tựa vào rừng?
Có thể thấy, thực trạng hao hụt và suy thoái rừng tự nhiên của Tây Nguyên thường được cho là do các hoạt động phá rừng trái pháp luật, buôn lậu gỗ, lấn chiếm rừng hay đốt rừng làm rẫy của người dân.
Tuy nhiên, để nhìn nhận được nguyên nhân vì sao rừng Tây Nguyên lại dần cạn kiệt nhanh tới vậy, chúng ta phải đánh giá cả tiến trình lịch sử quản lý và quy hoạch rừng, các chính sách phát triển và khai thác tài nguyên rừng, cũng như các chính sách di cư và bảo tồn rừng tự nhiên.
Nhìn rõ, việc chuyển đổi đất rừng tự nhiên của Tây Nguyên nhằm phục vụ cho các dự án kinh tế, thương mại mới chính là những nguyên do chính đã bào mòn núi rừng Tây Nguyên.
Suy thoái môi trường, mất rừng tự nhiên không phải là một vấn đề khách quan hay một xu hướng hiển nhiên của nhân loại. Việc ai là người có quyền nắm giữ, phân bổ, ra quyết định sử dụng, hưởng lợi từ thiên nhiên, từ rừng, từ biển mới chính là gốc rễ của các vấn đề này.
Bài viết được thực hiện và thiết kế bởi Cộng tác viên của 3 Phút Trăn Trở.