Lý giải: Những quốc gia nào chịu trách nhiệm lịch sử về biến đổi khí hậu? (Phần 2)
Bài viết được dịch từ bài đăng gốc "Which countries are historically responsible for climate change?" (2021) tại Carbonbrief bởi tác giả Simon Evans.
Quy trách nghiệm tính theo lượng khí thải tích lũy theo bình quân đầu người
Ý tưởng về trách nhiệm quốc gia phát sinh một số vấn đề khác, bao gồm sự không đồng đều về quy mô, sự giàu có và cường độ carbon trong dân số ngày nay, cũng như của các thế hệ trước. Những vấn đề này thể hiện cả trong mỗi quốc gia và giữa các quốc gia. Hơn nữa, bản thân mỗi quốc gia chính là cấu trúc độc đoán hơn của con người, là kết quả của những ngẫu nhiên về lịch sử, địa lý và chính trị. Với các biên giới thay đổi, việc xếp hạng các trách nhiệm lịch sử có thể sẽ rất khác.
Một cách để cố gắng gỡ rối vấn đề này là bình thường hóa đóng góp của các quốc gia vào lượng khí thải CO2 tích lũy theo dân số tương đối của họ. Giáo sư Pierre Friedlingstein [21], chủ tịch mô hình toán học của các hệ thống khí hậu tại Đại học Exeter, giải thích rằng không giống như lượng khí thải tích lũy trong lịch sử, liên quan trực tiếp đến sự nóng lên hiện nay, những con số bình quân đầu người này không liên quan trực tiếp đến khí hậu. Ông ấy chia sẻ thêm với Carbon Brief:
“Điều quan trọng đối với bầu khí quyển và khí hậu là lượng khí thải CO2 tích lũy. Mặc dù dữ liệu về lượng khí thải tích lũy trên đầu người rất thú vị, nhưng chúng không nên được quy cho phần trách nhiệm của mỗi quốc gia vì chúng không liên quan trực tiếp đến khí hậu. Bạn sẽ phải nhân nó với dân số của đất nước để tạo ra mối liên hệ với sự nóng lên.”
Một cách khác để cân nhắc về điều này là lưu ý rằng các quốc gia nhỏ có lượng khí thải bình quân đầu người cao vẫn có vai trò không quá quan trọng đối với sự nóng lên nói chung. Vì lý do này, bảng dưới đây không bao gồm các quốc gia có dân số hiện tại thấp hơn 1 triệu người (Các quốc gia như Luxembourg, Guyana, Belize và Brunei.)
Phân tích của Carbon Brief trong bài viết này tiếp cận câu hỏi tính toán quy mô dân số tương đối theo hai cách khác nhau. Những cách tiếp cận này cho kết quả khác nhau rõ rệt, làm nổi bật thách thức trong việc giải thích lượng phát thải tích lũy trên đầu người.
Cách tiếp cận đầu tiên lấy lượng khí thải tích lũy của một quốc gia trong mỗi năm và chia nó cho số người sống ở quốc gia đó vào thời điểm đó, ngầm quy trách nhiệm về quá khứ cho những người còn sống ngày nay. Bảng bên dưới bên trái hiển thị 20 quốc gia hàng đầu tính theo cơ sở này, cho đến năm 2021.
Cách tiếp cận thứ hai lấy lượng khí thải bình quân đầu người của một quốc gia trong mỗi năm và cộng chúng lại theo thời gian, với kết quả là vào năm 2021 được hiển thị trong bảng bên dưới bên phải. Điều này mang lại trọng lượng bằng nhau cho lượng khí thải bình quân đầu người của dân số trong quá khứ và ngày nay.
The top 20 countries for cumulative emissions 1850-2021 weighted by population in 2021 (left), versus the top 20 countries for cumulative per-capita emissions 1850-2021 (right). The ranking excludes countries with a population in 2021 of less than 1 million people.
Có lẽ tác động đáng chú ý nhất của việc tính toán qua dân số là sự vắng mặt của một vài trong số 10 quốc gia hàng đầu về tổng lượng khí thải tích lũy trong bảng trên, đó là Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Indonesia. Mặc dù các quốc gia này đã góp một phần lớn vào lượng khí thải tích lũy toàn cầu, nhưng họ cũng có dân số lớn, khiến tác động của mỗi người nhỏ hơn nhiều. Quả thật, chỉ riêng bốn quốc gia đó đã chiếm 42% dân số thế giới, nhưng chỉ chiếm 23% lượng khí thải tích lũy trong giai đoạn 1850-2021.
Ngược lại, phần còn lại của bảng xếp hạng, cụ thể là Mỹ, Nga, Đức, Anh, Nhật Bản và Canada, chiếm 10% dân số thế giới nhưng lên tới 39% lượng khí thải tích lũy. Điều này được phản ánh trong trọng số theo dân số hiện tại trong bảng phía trên bên trái, ở đó Canada xếp ở vị trí đầu tiên, tiếp theo là Hoa Kỳ, Estonia, Úc, Trinidad và Tobago và Nga.
Đối với các quốc gia lớn hơn trong danh sách này, thứ hạng của họ phản ánh sự kết hợp của tỷ lệ phá rừng cao trong thế kỷ 19 và giữa thế kỷ 20, thường là khi dân số thấp hơn nhiều, cùng với mức sử dụng nhiên liệu hóa thạch bình quân đầu người cao trong những thập kỷ gần đây.
Đối với những quốc gia khác, những lý do trở nên ít rõ ràng hơn. Ví dụ, Estonia từ lâu đã dựa vào cát dầu phục vụ cho hầu hết các nhu cầu năng lượng của mình, nghĩa là nước này có lượng khí thải bình quân đầu người hàng năm cao. Chính phủ Estonia đã cam kết [22] ngừng sản xuất cát dầu vào năm 2040. (Lưu ý rằng với tư cách là một quốc gia thuộc Liên Xô cũ, lượng khí thải của Estonia trước năm 1991 được ước tính theo tỷ lệ của nước này trong tổng lượng của Liên Xô vào thời điểm đó, nghĩa là có nhiều điều không chắc chắn hơn so với hầu hết các quốc gia khác. Xem phần phương pháp bên dưới để biết thêm chi tiết.)
Trinidad và Tobago, một đảo quốc Ca-ri-bê chỉ có 1,4 triệu dân, được xếp hạng cao nhờ có ngành công nghiệp dầu khí lớn, cũng là nguồn cung cấp cho một ngành hóa chất lớn.
Chuyển sang xếp hạng tích lũy theo đầu người trong bảng phía trên bên phải, danh sách này khá khác biệt mặc dù một lần nữa nó có Canada, Úc và Mỹ ở những vị trí nổi bật.
New Zealand đứng đầu danh sách này vì nạn phá rừng trên diện rộng trong thế kỷ 19, khi phần lớn rừng Kauri bản địa của nước này bị chặt phá để lấy gỗ quý [23]. Do đó, dân số nhỏ bé của đất nước này vào thời điểm đó có lượng khí thải bình quân đầu người hàng năm rất cao, với tổng lượng tích lũy vào năm 1900 chiếm khoảng 2/3 tổng lượng tích lũy cho đến ngày nay.
Các quốc gia khác trong danh sách này có phát thải từ nạn phá rừng bao gồm Gabon, Malaysia và Cộng hòa Congo, cũng như một số quốc gia Nam Mỹ.
Phương pháp đo lường: dữ liệu hóa thạch
Các nhà khoa học đã ước tính lượng khí thải CO2 trên toàn cầu trong hơn một thế kỷ, với sự đảm nhiệm của nhà địa hóa học người Thụy Điển Arvid Högbom vào năm 1894 được cho là nỗ lực đầu tiên trong việc ứng dụng phương pháp này [24]. Trong bản dịch của nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Khí hậu Quốc tế (CICERO) ở Na Uy Robbie Andrew [25], Högbom đã mô tả cách tính toán của ông ấy như sau:
“Trữ lượng sản xuất than cứng hiện nay rơi vào mức tròn 500 triệu tấn mỗi năm trên quy mô toàn cầu, hoặc 1 tấn trên 1 km2 bề mặt Trái đất. Sau khi chuyển hóa thành CO2, lượng than này chỉ chiếm khoảng một phần nghìn tổng lượng CO2 trong không khí.”
Theo Andrew, nghiên cứu của Högbom ám chỉ lượng khí thải CO2 trên toàn cầu do hoạt động đốt than rơi vào khoảng 1.8 tỷ tấn trong năm 1890. Mặc dù số liệu này rõ ràng chỉ là một con số xấp xỉ, nhưng nó đã rất sát với ước tính hiện tại về lượng phát thải từ than đá tại thời điểm bấy giờ, ở mức khoảng 1,3 tỷ tấn CO2.
Bản trích từ A G Högbom (1894). Bản dịch: “Current global hard coal production is in round numbers 500m tonnes per annum, or 1 tonne per km2 of the Earth’s surface. Transformed to CO2 this amount of coal represents approximately a thousandth part of the air’s total CO2” bởi Robbie Andrew.
Nghiên cứu của Högbom đã góp phần truyền cảm hứng cho công trình nổi tiếng vào năm 1896 của Svante Arrhenis [26], người đầu tiên dự đoán rằng việc thay đổi nồng độ CO2 trong khí quyển có thể làm thay đổi đáng kể nhiệt độ Trái đất.
Trong những năm qua, các nhà khoa học đã phát triển một số dòng thời gian nhằm ước tính lượng khí thải CO2 từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch. Mặc dù những chuỗi thời gian này không hoàn toàn tương thích với nhau nhưng chúng cũng giống nhau ở một vài phần trăm.
Dữ liệu cho bài viết này được rút ra từ một danh sách dài các nguồn tham khảo. Đầu tiên là bản ước tính lượng khí thải CO2 lịch sử quốc gia [27] từ sản xuất nhiên liệu hóa thạch và xi măng, được phát triển bởi Trung tâm Phân tích Thông tin Carbon Dioxide (CDIAC) ở Mỹ và được điều chỉnh bởi Dự án Carbon Toàn cầu. Các số liệu của CDIAC đang được lưu trữ và cập nhật bởi Trung tâm Năng lượng Appalachian tại Đại học Bang Appalachian, vận hành từ năm 1750 cho đến ngày nay.
Các ước tính lượng CO2 do đốt nhiên liệu hóa thạch trong lịch sử được dựa trên một phương pháp phát triển vào năm 1984 [28], đã được tinh chỉnh kể từ đó. Theo nghĩa rộng, nó sử dụng các dữ liệu về sản xuất, buôn bán và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, cũng như ước tính lượng CO2 thải ra khi đốt cháy một lượng than, dầu hoặc khí nhất định. Về mặt khái niệm, đây là cách mà Högbom đưa ra ước tính đầu tiên về lượng khí thải CO2 trên toàn cầu. Một phiên bản tinh vi hơn của phương pháp này vẫn được sử dụng để đo lường lượng khí thải ngày nay.
Gregg Marland [29], một trong những tác giả chính của chuỗi thời gian CDIAC, cũng là người dành nhiều thập kỷ nghiên cứu các số liệu chỉ ra với Carbon Brief rằng: “Tôi nghĩ rằng hầu hết mọi người không nhận thức được việc lượng khí thải CO2 hiếm khi được đo lường thực sự, thay vào đó chúng sẽ được tính toán từ nguồn dữ liệu tốt nhất hiện có về lượng nhiên liệu hóa thạch và những gì con người đã làm với nó.”
Robbie Andrew viết: “Bởi vì lượng khí thải CO2 từ nhiên liệu hóa thạch chủ yếu liên quan đến vấn đề năng lượng, vốn là một loại hàng được theo dõi chặt chẽ bởi vai trò quan trọng của nó trong hoạt động kinh tế. Cho nên có rất nhiều dữ liệu cơ bản mà ta có thể sử dụng để ước tính lượng khí thải.”
Nhìn chung, Gregg Marland nhận định: “Chúng tôi cảm thấy khá hài lòng với những ước tính cơ bản về lượng khí thải CO2 toàn cầu, nhưng sự sai số có thể khá lớn đối với một số quốc gia riêng lẻ trong giai đoạn đầu thu thập bộ dữ liệu.” Ông cũng chia sẻ với Carbon Brief thêm:
“Đây là bộ dữ liệu về việc sử dụng và xử lý nhiên liệu hóa thạch từ năm 1751. Dữ liệu này cần xử lý và chúng không hoàn hảo, nhưng chúng cho thấy những số liệu khá quan trọng qua chiều dài lịch sử [...] Công việc tính toán trong những năm đầu tiên được thúc đẩy bởi hai sự kiện: Giai đoạn đầu chỉ có một số quốc gia đốt nhiên liệu hóa thạch và việc tốc độ tăng trưởng lớn đến mức phần lớn lượng khí thải toàn cầu đã bị thải ra chỉ trong những thập kỷ gần đây.”
Một câu hỏi hiển nhiên nảy sinh từ dữ liệu trên là tại sao Trung Quốc, với dân số khoảng 400 triệu người ngay cả vào năm 1850, nên được ghi nhận là không có khí thải từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch cho đến khoảng đầu thế kỷ 20.
Trung Quốc được cho là đã sử dụng than đá trong hàng nghìn năm, với một nguồn thông tin [30] cho rằng nước này đã đốt hàng trăm nghìn tấn than đá mỗi năm để sản xuất sắt ngay từ thế kỷ 11. Tuy nhiên, việc sử dụng than được cho là mang tính bản địa cao do chi phí vận chuyển đắt đỏ, cũng như việc một số trục sắt đã bị sập sau cuộc xâm lược của người Mông Cổ. Trung Quốc vẫn chủ yếu phụ thuộc vào nhiên liệu từ gỗ, nên họ đã gây ra nạn phá rừng trên diện rộng. Trong một bài báo năm 2004, nhà sử học năng lượng Vaclav Smil viết:
“Vào năm 1900, một số quốc gia châu Âu gần như hoàn toàn sử dụng năng lượng từ than đá. Nhưng việc sử dụng năng lượng ở vùng nông thôn Trung Quốc trong năm cuối cùng của triều đại nhà Thanh (1911) không khác nhiều so với tình trạng như trên ở vùng nông thôn Trung Quốc 100 hoặc 500 năm trước đó.”
“Nguồn than đá được sử dụng ở Trung Quốc trước năm 1900 rất khó để định lượng”, một cơ sở dữ liệu khác chỉ ra về lịch sử sử dụng năng lượng trên khắp thế giới, do Giáo sư Paolo Malanima [31] biên soạn và được Trung tâm Lịch sử và Kinh tế tại Đại học Harvard tổ chức. Tuy nhiên, dữ liệu này đã bổ sung cho các số liệu mà CDIAC đưa ra.
Gregg Marland chia sẻ với Carbon Brief: “Đối với tôi, dường như việc sử dụng nhiều than đá [ở Trung Quốc] không được thể hiện trong một số dữ liệu lịch sử mà chúng tôi đã sử dụng.”
Phương pháp đo lường: đường cơ sở công nghiệp
Mốc thời gian phân tích của Carbon Brief trong bài viết này bắt đầu vào năm 1850, bởi vì mốc này trùng khớp với định nghĩa của IPCC về giai đoạn cơ sở tiền công nghiệp vào năm 1850-1900 và cũng bởi dữ liệu về lượng khí thải quốc gia từ sử dụng đất và lâm nghiệp trước năm 1850 là không có sẵn (xem bên dưới).
Theo số liệu của CDIAC, chỉ một số ít quốc gia thải ra lượng CO2 đáng kể từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch trước năm 1850, và trong số đó, nhiều quốc gia có tổng lượng phát thải không đáng kể cho đến tận thế kỷ 20. Do đó, việc bắt đầu từ năm 1850 chỉ loại trừ 3.8 tỷ tấn CO2 khí thải nhiên liệu hóa thạch được thải ra trong giai đoạn 1750-1850, tức chỉ chiếm khoảng 0.2% tổng lượng phát thải trong toàn bộ thời kỳ 1750-2021.
Trong tổng số lượng khí thải trước năm 1850, gần ba phần tư (2,8 tỷ tấn CO2) đến từ Vương quốc Anh. Mở rộng phân tích tới năm 1750 sẽ thêm 0,1 điểm phần trăm vào tỷ lệ phát thải tích lũy toàn cầu của Vương quốc Anh.
Nghiên cứu của CDIAC cũng được áp dụng trong chuỗi thời gian lịch sử do Dự án Carbon toàn cầu (GCP) xuất bản, được tổng hợp với các thông tin hữu ích khác bởi Our World in Data (OWID). Phân tích của Carbon Brief lấy dữ liệu phát thải hóa thạch cho đến năm 2019 từ tài liệu tổng hợp của OWID. Sau đó, phân tích ước tính lượng khí thải vào năm 2020 và 2021 sử dụng các số liệu gần thời gian thực do Carbon Monitor công bố. Trung tâm này cung cấp dữ liệu tổng hợp cho các nền kinh tế lớn và các khu vực còn lại trên thế giới.
Số liệu năm 2020 áp dụng thay đổi phần trăm hàng năm từ Carbon Monitor thành tổng số lượng trong năm 2019 từ GCP được tính bằng tấn. Cách tiếp cận trong năm 2021 vẫn như vậy, nhưng sử dụng tỷ lệ phần trăm thay đổi lượng phát thải hàng năm cho đến nay. Tại thời điểm viết bài này, dữ liệu từ Carbon Monitor được vận hành đến cuối tháng Bảy năm 2021.
Dữ liệu về lượng khí thải CO2 do nhiên liệu hóa thạch từ vận tải quốc tế được GCP báo cáo riêng cũng như được thu thập từ trang web cá nhân của Robbie Andrew [32], một trong những cộng tác viên của dự án. Carbon Brief cho rằng lượng khí thải do giao thông quốc tế đã giảm một nửa vào năm 2020 trước khi quay trở lại mức năm 2019. GCP thông qua Our World in Data cũng là nguồn thông tin phát thải dựa trên mức tiêu thụ, hoạt động từ năm 1990 trở đi. Dữ liệu về dân số đến từ Our World in Data và Gapminder.
Phương pháp đo lường: Thay đổi đường biên giới
Những thay đổi về lãnh thổ và sự thống nhất hoặc tan rã của các thực thể quốc gia đặt ra một vấn đề quan trọng đối với sự phân chia lượng khí thải trong lịch sử. “Nếu có thể”, dữ liệu từ CDIAC giải thích cho việc thay đổi ranh giới quốc gia theo thời gian, mặc dù điều này “rất khó khăn”, Gregg Marland cho biết. Ví dụ, trách nhiệm đối với lượng khí thải từ vùng Alsace-Lorraine giàu than đá và khoáng sản sẽ thay đổi giữa Pháp và Đức, theo đường biên giới hiện đại. Tương tự, lượng khí thải từ khu vực hiện là một phần của Pakistan được báo cáo theo tổng lượng khí thải của Ấn Độ trước khi nước này bị chia cắt vào năm 1947, với việc Bangladesh tách ra xa khỏi Pakistan vào năm 1971.
Gregg Marland nói với Carbon Brief:
“Tất nhiên là vấn đề một số thay đổi về biên giới quốc gia rất khó để giải quyết. Nhưng những sự kiện như sự tan rã của Liên Xô cũ hoặc Nam Tư cũ, hoặc sự thống nhất giữa Bắc và Nam Việt Nam hoặc Đông và Tây Đức, thực sự để lại một số dấu vết về dữ liệu mà có thể được tái thiết. Theo tôi, điều quan trọng là người nghiên cứu phải minh bạch, trung thực và được tiếp cận nguồn dữ liệu tốt nhất hiện có.”
Robbie Andrew cho biết, việc tiếp cận các quốc gia trong các hình thái siêu quốc gia như đế chế Áo-Hung hoặc Ottoman đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho việc nghiên cứu, và rủi ro tính lên gấp đôi lượng khí thải thực chất.
Bản đồ vùng Đế quốc Áo - Hung vào năm 1850.
Một điểm khác biệt chính trong nghiên cứu so với CDIAC là GCP đã tổng hợp và phân tách lượng khí thải quốc gia dựa theo phạm vi địa lý hiện đại, như việc kết hợp miền đông và miền tây nước Đức thành một đơn vị duy nhất. Tương tự, trong khi CDIAC báo cáo lượng phát thải từ Tiệp Khắc với tư cách là một quốc gia duy nhất cho đến khi tách thành Cộng hòa Séc và Slovakia sau năm 1991, GCP báo cáo số liệu từ từng quốc gia cấu thành trong suốt chuỗi thời gian. Sự phân chia này dựa trên tỷ lệ phát thải của Czech và Slovakia, tại thời điểm phân chia năm 1991, với những tỷ trọng được dự báo ngược theo thời gian. GCP sử dụng cách tiếp cận tương tự đối với các quốc gia thuộc Liên Xô cũ, trong khi CDIAC báo cáo dữ liệu cho Liên Xô từ năm 1830-1991 và cho từng quốc gia độc lập sau đó.
Đây rõ ràng là một cách tiếp cận thô sơ, làm gia tăng sự không chắc chắn trong dữ liệu – và do đó, không nên trình bày quá rõ ràng thứ hạng tương đối của các quốc gia này. Tuy nhiên, để theo dõi lượng khí thải tích lũy theo thời gian, phân tích của Carbon Brief sử dụng báo cáo GCP về lượng khí thải quốc gia, thay vì định nghĩa quốc gia đang chuyển dịch mà CDIAC sử dụng.
Phương pháp đo lường: Phát thải do sử dụng đất
Lượng khí thải CO2 ước tính của các quốc gia từ hoạt động sử dụng đất, thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp (LULUCF) là kết quả trung bình của hai nguồn dữ liệu là Houghton và Nassikas (2017, sau đây gọi là “HN”) và Hansis et al (2015, “BLUE”). Các phiên bản cập nhật của các bộ dữ liệu này bao gồm giai đoạn 1850-2019 và sử dụng cách ghi nhãn quốc gia, đã được chia sẻ với Carbon Brief bởi một trong các tác giả, Giáo sư Julia Pongratz [33], Giám đốc khoa Địa lý tại Đại học Ludwig-Maximillians ở Munich. Cả hai bộ dữ liệu đều xuất phát từ “mô hình sổ sách kế toán”, nói một cách đơn giản là ghi lại những thay đổi về trữ lượng carbon trong đất và trên mặt đất theo thời gian, dựa trên mức độ tổng hợp của việc thay đổi sử dụng đất.
Richard Houghton [34], một nhà khoa học cao cấp danh dự tại Trung tâm Nghiên cứu Khí hậu Woodwell và là tác giả chính của chuỗi thời gian HN, đã giải thích khái niệm này cho Carbon Brief:
“Chúng tôi tính toán lượng khí thải hàng năm từ việc thay đổi sử dụng đất bằng mô hình sổ sách kế toán và hai loại dữ liệu. Loại đầu tiên tái tạo lại các KHU VỰC của đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng và các vùng đất khác. Loại dữ liệu thứ hai là dữ liệu CARBON. Có bao nhiêu carbon trong thảm thực vật và đất của các loại hệ sinh thái khác nhau và những trữ lượng đó thay đổi như thế nào do thay đổi sử dụng đất và lâm nghiệp?”
Dựa trên các tài liệu khoa học bao quát hơn, các nhà nghiên cứu nhìn ra từ mô hình lượng carbon bị mất đi hoặc thu được từ việc sử dụng đất thay đổi do hoạt động của con người. Houghton nói:
“Mô hình sổ sách kế toán hình thành dựa trên hiểu biết về những thay đổi hàng năm về trữ lượng carbon của một hecta đất đang được quản lý hoặc sử dụng đất dưới một số hình thức. Ví dụ, phát quang rừng để lấy đất canh tác hoặc trồng rừng trên đất trống. Những dữ liệu về trữ lượng carbon này và những thay đổi của chúng trong quá trình quản lý được lấy từ các tài liệu về sinh thái và lâm nghiệp.”
Hai bộ dữ liệu LULUCF có sự khác biệt đáng kể ở cấp độ toàn cầu và quốc gia, được chỉ ra trong một bài báo chung [35] gần đây được xuất bản bởi hai nhóm. Các yếu tố chính bao gồm việc sử dụng các dữ liệu sử dụng đất cơ bản khác nhau và HN tổng hợp dữ liệu này ở cấp quốc gia, trong khi BLUE rõ ràng hơn về mặt không gian. Điều này cho phép BLUE theo dõi việc canh tác nương rẫy có thể ảnh hưởng đến trữ lượng carbon trên một khu vực rộng lớn hơn, ngay cả khi diện tích thực của đất nông nghiệp không đổi.
Một đàn bò tót chở gỗ trong rừng kauri ở Matakohe, Đảo Bắc của New Zealand, vào khoảng năm 1900. Ảnh: Lakeview Images / Alamy Stock Photo
Các mô hình cũng khác nhau về số liệu ước tính trữ lượng carbon cho từng loại hình sử dụng đất, cũng như cách xử lý đối với phần trữ lượng carbon bị phân hủy nhanh chóng. Để cập nhật đầy đủ các chuỗi thời gian này cho năm 2021, Carbon Brief giả định lượng khí thải sử dụng đất trong những năm gần đây nhất không thay đổi so với ước tính có sẵn gần đây nhất.
Cũng giống như các ước tính về lượng khí thải CO2 hóa thạch, sự không chắc chắn trong các số liệu LULUCF ngày càng tăng theo thời gian. Houghton nói với Carbon Brief:
“Có thể thấy rõ ràng sự không chắc chắn về kết quả từ những dữ liệu không đầy đủ cũng như trong các giả định mà chúng tôi sử dụng để điền vào những phần còn thiếu. Sự không chắc chắn tăng lên khi chúng ta quay ngược lại thời gian, nhưng tốc độ thay đổi sử dụng đất trong quá khứ nhìn chung thấp hơn so với 60 năm qua.”
Pongratz nói rằng sự không chắc chắn tổng thể trong việc sử dụng đất toàn cầu và phát thải lâm nghiệp lên tới khoảng cộng hoặc trừ 2.5 tỷ tấn CO2 mỗi năm, tương tự phạm vi đối với nhiên liệu hóa thạch. Tuy nhiên, sự không chắc chắn này còn lớn hơn nhiều về mặt tương đối, ở mức ±50% tổng lượng phát thải LULUCF ước tính. Mặc dù mức độ không chắc chắn trong sử dụng đất và khí thải lâm nghiệp đã giảm đáng kể trong vài năm qua, Pongratz cho rằng: “Đó là phần không chắc chắn nhất trong ngân sách carbon do con người tạo ra, nhưng giờ đây mang các khía cạnh chính trị quan trọng với các cuộc thảo luận xung quanh việc loại bỏ CO2.”
Bộ dữ liệu thứ ba về lượng phát thải LULUCF là chuỗi thời gian mang tên “OSCAR” [36], được tính trung bình từ HN và BLUE phục vụ cho phân tích Ngân sách carbon toàn cầu hàng năm. Tuy nhiên, OSCAR chỉ được báo cáo ở cấp khu vực chứ không phải cấp quốc gia, do đó nó không được sử dụng trong phân tích lịch sử phát thải quốc gia của Carbon Brief. Pongratz cho biết rằng dữ liệu OSCAR thường ở khoảng giữa của hai chuỗi còn lại. Tổng tích lũy toàn cầu cho LULUCF do Carbon Brief sử dụng khác với mức trung bình ba chiều do GCP sử dụng dưới 2%.
Mặc dù phân tích của Carbon Brief bắt đầu vào năm 1850, cũng như đối với nhiên liệu hóa thạch, ngày này không loại trừ một số lượng khí thải CO2 liên quan đến thay đổi sử dụng đất thời kỳ tiền công nghiệp, chủ yếu là hoạt động phá rừng.
Pongratz là tác giả chính của một bản báo năm 2012 [37] xoay quanh lượng khí thải do thay đổi sử dụng đất trong khu vực trong thời kỳ tiền công nghiệp 1000 năm từ 800-1850. Ở châu Âu, nghiên cứu này cho thấy một đợt phát thải lớn do chặt phá rừng trên diện rộng cho đến khi “cái chết đen” lan rộng, sau đó là một làn sóng phá rừng tiếp theo trong thời kỳ Phục Hưng. Tuy nhiên, điều thú vị là nó cho thấy rằng tổng lượng phát thải do thay đổi sử dụng đất toàn cầu chủ yếu do Trung Quốc và Nam Á, một khu vực chủ yếu bao gồm Ấn Độ.
Nghiên cứu kết luận rằng lượng khí thải CO2 thời tiền công nghiệp làm tăng tỷ lệ nóng lên hiện nay của châu Á lên 2-3 điểm phần trăm, đồng thời làm giảm tỷ lệ của Bắc Mỹ và Châu Âu với một lượng tương tự.
Bài viết được biên soạn và dịch bởi Cộng tác viên của 3 Phút Trăn Trở.
Chú thích nguồn:
[21] http://emps.exeter.ac.uk/mathematics/staff/pf229
[22] https://www.airclim.org/acidnews/estonia-shale-gale
[23] https://www.thecoromandel.com/activities/our-heritage/kauri-logging/
[24] http://runeberg.org/svkemtid/1894/0183.html
[25] https://folk.universitetetioslo.no/roberan/t/EarlyEstimates1.shtml
[26] https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/14786449608620846
[27] https://cdiac.ess-dive.lbl.gov/trends/emis/overview_2014.html
[28] https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.3402/tellusb.v36i4.14907
[29] https://earth.appstate.edu/faculty-staff/dr-gregg-h-marland
[30] https://brill.com/view/journals/jesh/10/1/article-p102_6.xml
[31] https://cnr-it.academia.edu/PaoloMalanima
[32] https://folk.universitetetioslo.no/roberan/GCB2020.shtml
[33] https://www.geographie.uni-muenchen.de/department/fiona/personen/index.php?personen_details=1&user_id=307
[34] https://esd.copernicus.org/articles/12/745/2021/
[35] https://www.woodwellclimate.org/staff/richard-houghton/
[36] https://bg.copernicus.org/articles/17/4075/2020/bg-17-4075-2020.pdf
[37] https://iopscience.iop.org/article/10.1088/1748-9326/7/3/034001/pdf